Những thay đổi về BHXH năm 2016

Những thay đổi về BHXH năm 2016

Ngày 11/11/2015, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Theo đó, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm

Người lao động là công dân Việt Nam:

Người đi làm việc ở trong nước:

Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;

  • Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và viên chức;
  • Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu;
  • Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;
  • Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn;
  • Người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài quy định tại Khoản 4
  • Điều 123 của Luật Bảo hiểm xã hội.
    Riêng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng tham gia BHXH bắt buộc áp dụng từ 01/01/2018.
Người đi làm việc ở nước ngoài:

Theo hợp đồng quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định
Tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đến ngày 31 tháng 12 năm 2017, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật về lao động ghi trong hợp đồng lao động.

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 trở đi, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động ghi trong hợp đồng lao động.

Tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người quản lý doanh nghiệp có hưởng tiền lương do doanh nghiệp quyết định, trừ viên chức quản lý chuyên trách trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu.

Tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương do đại hội thành viên quyết định.

Ngoài ra, nghị định cũng nêu rõ chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ (Điều 3+4+5; Mục 1; Chương II).

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Riêng quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 2 của Nghị định này, sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018./.

Luật BHXH mới sẽ giảm điều kiện thời gian đóng BHXH và tuổi đời để hưởng lương hưu đối với lao động nữ hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở cấp xuống còn 15 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi.

Do đối tượng này có tính đặc thù tương đối. Tuy nhiên, đối tượng này không được điều chỉnh lương hưu bằng mức lương cơ sở trong trường hợp lương hưu thấp hơn mức lương cơ sở;

Về điều kiện tuổi đời hưởng lương hưu đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, Luật BHXH sẽ sửa theo hướng: Tăng dần mỗi năm 1 tuổi từ 01/01/2016 đến khi nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi trở lên (hiện nay là 50 và 45); đối với nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi thì điều kiện hưởng lương hưu do suy giảm khả năng lao động phải từ 81% trở lên.

Liên quan tới mức hưởng lương hưu

Sửa đổi cách tính tỷ lệ % hưởng lương hưu theo lộ trình tăng dần số năm đóng BHXH đối với lao động nam để được hưởng 45% mức bình quân tiền lương tháng như sau:
  • Nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi mỗi năm tăng thêm 01 năm cho đến khi 20 năm đóng BHXH tương ứng với 45%
  • (năm 2018 là 16 năm; Năm 2019 là 17 năm; năm 2020 là 18 năm; năm 2021 là 19 năm và từ năm 2022 trở đi là 20 năm);
  • Đối với nữ 15 năm đóng BHXH tương ứng với 45% và sau đó cả nam và nữ đều tính thêm 2% cho mỗi năm, mức tối đa bằng 75%.

Tăng tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi nhằm hạn chế tình trạng nghỉ hưu sớm như hiện nay khi mà người lao động sau khi nghỉ hưu vẫn còn khả năng lao động.

Về mức bình quân tiền lương làm căn cứ tính lương hưu đối với người thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, Luật quy định lộ trình áp dụng cách tính lương bình quân theo nhiều bước để tiến tới thực hiện tính bình quân chung của cả quá trình đóng BHXH, đảm bảo bình đẳng giữa khu vực trong và ngoài nhà nước.

Cụ thể:
  • Tính bình quân của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu đối với người lao động tham gia BHXH trước năm 1995;
  • Tính bình quân của 6 năm cuối đối với tham gia BHXH trong thời gian từ ngày 01/01/1995 đến 31/12/2000;
  • Tính bình quân của 8 năm cuối đối với người tham gia BHXH trong thời gian từ 01/01/2001 đến 31/12/2006 (như quy định hiện hành);
  • Tham gia BHXH từ 01/01/ đến 31/12/2015 thì tính bình quân của 10 năm cuối;
  • Tham gia BHXH từ ngày Luật có hiệu lực thi hành đến 31/12/2019 thì tính bình quân của 15 năm cuối trước khi nghỉ hưu;
  • Tham gia BHXH từ ngày 01/01/2020 đến 31/12/2024 tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 20 năm cuối;
  • Tham gia BHXH từ ngày 01/01/2025 trở đi thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian.

Kết luận:

=> Như vậy, Có thể nói với các nội dung sửa đổi nêu trên, để được hưởng lương hưu với tỷ lệ % tối đa (75%) khi thực hiện đầy đủ lộ trình thì người lao động phải có thời gian đóng BHXH nhiều hơn (nam là 35 năm, nữ là 30 năm) nên số người đủ điều kiện được hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu sẽ ít hơn;

=> Người lao động nghỉ hưu trước tuổi sẽ bị trừ tỷ lệ % hưởng lương hưu nhiều hơn.

 

Rate this post
Bình luận của khách

Tư vấn ngay